Nguyên đơn cho rằng đã ủy quyền miệng và chuyển tiền để bị đơn đi mua đất cho mình, tuy nhiên phía bị đơn lại cho rằng mình bỏ tiền ra mua và người bán đã viết giấy nhận tiền, viết giấy bán cũng như giao sổ đỏ cho mình giữ. Vậy, phán quyết của Tòa án liệu có thuyết phục?
Nội dung vụ án
Theo nội dung Bản án số 06/2025/DS-ST ngày 12/8/2025 của TAND Khu vực 12 - Hải Phòng được tóm tắt như sau: Bà Nguyễn Thị Liễu (trú thôn Thu Lãng, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương (nay là thôn Thu Lãng, xã Cẩm Giàng, TP. Hải Phòng) và ông Nguyễn Ngọc Diệu (trú cùng địa chỉ) có mối quan hệ chị em ruột.
Năm 2004, bà Liễu đi lao động tại Đài Loan và có nguyện vọng mua đất tại xã Ngọc Liên, huyện Cẩm Giàng. Mặc dù gia đình bà có 07 anh chị em, nhưng bà tin tưởng nhất ông Diệu nên có gọi điện nhờ ông Diệu tìm và mua hộ bà thửa đất. Ông Diệu hoàn toàn nhất trí.
Năm 2007, ông Diệu thông tin cho bà bằng điện thoại, đã tìm được mảnh đất của bà Bùi Thị Thành ở gần cổng trường cấp 2 xã Ngọc Liên (thửa đất số 539 tờ bản đồ số 02 diện tích 110m² tại thôn Tế Bình (nay là thôn Bằng Nghĩa), xã Ngọc Liên, huyện Cẩm Giàng với giá 180.000.000đ. Bà thấy hợp lý nên đồng ý và ủy quyền miệng cho ông Diệu đứng ra giao dịch chuyển nhượng hộ bà.
Đồng thời bà nhờ anh trai là Nguyễn Ngọc Hùng đi cùng để lập giấy tờ mua bán và bàn giao tiền. Bà Liễu đã gửi vào tài khoản của chị dâu là bà Lê Thị Hồng Thanh số tiền 160.000.000 đồng, sau đó bà Thanh đưa cho ông Diệu. Số tiền còn thiếu 20.000.000 đồng, bà nhờ ông Diệu đi vay hộ để thanh toán tiền mua đất.
Ngày 19/9/2007, ông Diệu và ông Hùng đến nhà bà Thành giao tiền và thiết lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ). Khoảng một tháng sau bà Liễu gửi số tiền 1.993,4 USD tương đương 30.000.000đ tiền Việt Nam cho bà Thanh để bà Thanh trả số tiền mua đất còn thiếu cho ông Diệu. Tất cả sự kiện trên là sự thật và hiện nay những người chứng kiến việc mua bán còn sống và đều thừa nhận.

Giấy chứng nhận QSDĐ được bà Thành ghi “Ngày 19/9/2007 đã chuyển nhượng sổ đất cho anh Diệu toàn quyền sử dụng”
Năm 2024 bà Liễu về nước yêu cầu ông Diệu bàn giao trả giấy chứng nhận QSDĐ để bà hoàn tất thủ tục theo quy định của pháp luật, nhưng ông Diệu không đồng ý. Do đó, bà Liễu khởi kiện đề nghị TAND Khu vực 12 - Hải Phòng yêu cầu giải quyết: Thứ nhất, công nhận hiệu lực của hợp đồng ủy quyền giữa bà và ông Diệu để thực hiện việc nhận chuyển nhượng QSDĐ. Thứ hai, công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Thành và ông Diệu được thiết lập vào ngày 19/9/2007. Thứ ba, buộc ông Diệu phải trả lại bà thửa đất số 539 tờ bản đồ 02 diện tích 110m² địa chỉ thôn Bằng Nghĩa, xã Cẩm Giàng, TP.Hải Phòng.
Tuy nhiên theo ông Diệu, yêu cầu khởi kiện của bà Liễu ông không đồng ý vì: Năm 2007, bà Liễu không ủy quyền bằng lời nói cho ông và vợ chồng ông là người trực tiếp thỏa thuận việc mua bán đất với vợ chồng bà Thành. Ngày 19/9/2007, ông và anh trai là Nguyễn Ngọc Hùng đến nhà bà Thành giao tiền và nhận đất. Khi giao tiền bà Thành đã viết giấy nhận đủ tiền, cũng như viết giấy chuyển nhượng đất ở đứng tên ông Diệu. Do đó, ông cho rằng ông đi mua hộ đất cho bà Liễu là không chính xác…
Nội dung vụ án cũng thể hiện quan điểm của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng như: Vợ chồng bà Thành là người bán đất cũng như chị Ngô Thị Ngàn, bà Lê Thị Hồng Thanh, ông Nguyễn Ngọc Hùng và ông Nguyễn Văn Hiển (ông Hiển là cán bộ địa chính xã lúc bấy giờ-PV), đồng thời Tòa án cũng đã tiến hành xác minh tại UBND Ngọc Liên (nay xã Cẩm Giàng, TP. Hải Phòng), thể hiện: Về nguồn gốc thửa đất số 539 tờ bản đồ 02. Theo hồ sơ 299 (bao gồm bản đồ 299 và sổ mục kê 299) thì thửa đất tranh chấp được thể hiện tại thửa đất số 11 tờ bản đồ số 9 diện tích 760m², đất thuộc quyền quản lý của UBND xã Ngọc Liên. Theo hồ sơ 1993 (bao gồm bản đồ 1993 và sổ mục kê 1993) thì thửa đất tranh chấp được thể hiện tại thửa đất số 539 tờ bản đồ số 2 diện tích 110m², đăng ký tên chủ sử dụng là bà Bùi Thị Thành.
.jpeg)
Diện tích đất ông Diệu quản lý, sử dụng từ năm 2007
Theo hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ: Thửa đất tranh chấp được bà Bùi Thị Thành làm đơn xin cấp giấy chứng nhận QSDĐ vào ngày 20/5/1993 và đến ngày 09/9/1995 thì bà Thành được UBND huyện Cẩm Bình cấp giấy chứng nhận QSĐĐ. Tại mục kê năm 1993 còn có dòng ghi chú: “Thửa đất số 539 chuyển cho Nguyễn Thị Liễu con ông My lấy chồng Đức Tinh”, phần ghi chú này được thực hiện bởi cán bộ địa chính thời kỳ đó là ông Nguyễn Văn Hiển.
Từ năm 2022 trở về trước, chính quyền địa phương không thấy ai trong gia đình ông Diệu, bà Liễu hay bà Thành đến UBND xã làm thủ tục sang tên thửa đất. Đến năm 2022 ông Diệu đến UBND xã làm thủ tục sang tên thửa đất cho ông Diệu, chính quyền địa phương đã hướng dẫn và làm thủ tục đo đạc, chuyển nhượng nhưng bà Thành từ chối không ký các biên bản. Lý do vì sao từ chối thì UBND xã không nắm được. Nay, UBND xã được biết bà Liễu khởi kiện, UBND xã đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật làm sao đảm bảo quyền lợi cho các đương sự…
Theo đó, HĐXX sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, công nhận hiệu lực của hợp đồng ủy quyền giữa bà Liễu và ông Diệu được thiết lập bằng lời nói năm 2007. Hợp đồng ủy quyền đã xong. Ghi nhận sự kiện pháp lý về việc chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Diệu và bà Thành, ông Trung được thiết lập ngày 19/9/2007 (ông Diệu thực hiện thay bà Liễu). Xác lập quyền sở hữu của bà Liễu đối với thửa đất nêu trên. Buộc vợ chồng ông Diệu có trách nhiệm trả bà Liễu thửa đất số 539, tờ bản đò 02, diện tích 115m2 (đất ở do tăng thêm-PV).
Bị đơn kháng cáo và những câu hỏi được đặt ra
Do không đồng ý và chấp nhận với quyết định của cấp sơ thẩm, ông Diệu đã kháng cáo và cho rằng, cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của nguyên đơn, những người liên quan và người làm chứng để chứng minh cho nguyên đơn, trong khi nguyên đơn hoàn toàn không cung cấp được bằng chứng vật chất nào chứng minh cho việc đã ủy quyền miệng và chứng minh đã chuyển tiền cho cho ông để mua hộ đất?
Bên cạnh đó ông Diệu cũng đề nghị làm rõ tại sao Sổ mục kê lại được cán bộ địa chính ghi chú “Thửa đất số 539 chuyển cho Nguyễn Thị Liễu con ông My lấy chồng Đức Tinh” trong khi nguồn gốc đất là do vợ chồng bà Thành mua đấu giá từ thửa đất số 11, tờ bản đồ số 9 diện tích 760m2, đất thuộc quyền quản lý của UBND xã Ngọc Liên? Hơn nữa tại sao vợ chồng bà Thành cho rằng ông Diệu mua đất hộ bà Liễu, nhưng trước khi giao sổ đỏ cho ông Diệu bà Thành lại ghi và ký vào sổ đỏ nội dung “Ngày 19/9/2007 đã chuyển nhượng sổ đất cho anh Diệu toàn quyền sử dụng”?...
Với những phản ánh của ông Diệu nêu trên, thiết nghĩ HĐXX phúc thẩm tới đây cần xem xét, đánh giá một cách khách quan, toàn diện nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, tránh khiếu kiện kéo dài.
Quỳnh Anh
Luật sư Việt Nam